Phóng viên chiến trường,
Trung Tá Nguyễn Ngọc Hạnh
Trung Tá Nguyễn Ngọc Hạnh
Sinh
năm 1927 tại Hà Đông, gia nhập Không quân Việt Nam năm 1950. Ông Hạnh
tốt nghiệp trường Nhiếp Ảnh Pháp ở Toulouse năm 1956 và trở thành một
nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Năm 1957, ông sáng lập Hội Nhiếp Ảnh
Quân Đội Việt Nam . Năm 1961, ông trở thành Sĩ quan nhiếp ảnh chiến
trường của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, binh chủng Nhảy Dù.
Ông
được chọn làm Hội viên danh dự Hội nhiếp ảnh quốc tế năm 1971. Trong
thời gian làm phóng viên chiến trường, ông được lãnh nhiều giải thưởng
cao quý về nhiếp ảnh tại nhiều quốc gia khác nhau.
Sau khi miền Nam thất thủ năm 1975, ông
Nguyễn Ngọc Hạnh bị đi tù Cộng sản như bao nhiêu đồng đội khác Đến năm
1983, hội The Royal Photographic Society of Great Britain can thiệp cho
ông được trả tự do với 63 chữ ký của nhiều quốc gia khác nhau. Ông đến
Hoa Kỳ năm 1989.
Ông
Hạnh thành lập Hội Nhiếp Ảnh Việt Nam tại San Jose năm 1990. Sau đó hội
trở thành Hội Nhiếp Ảnh Việt Nam Bắc
California vào năm 2000. Sau gần 20 năm định cư tại Hoa Kỳ, ông Hạnh đã
đào tạo hàng trăm nhiếp ảnh viên chuyên nghiêp. Nhiều học trò của ông
được nhận làm Hội viên danh dự Hội Nhiếp Ảnh Hoàng Gia Anh và các Hội
Nhiếp Ảnh Chuyên Nghiệp Hoa Kỳ.
Ông được nhận là hội viên của nhiều Hội
Nhiếp Ảnh trên nhiều quốc gia khác nhau. Trong cuộc đời nhiếp ảnh, ông
Hạnh đã nhận được 92 huy chương Vàng, 110 huy chương Bạc và rất nhiều
giải thưởng khác nhau cho
sự nghiệp nhiếp ảnh của ông. Ông Hạnh hiện nay vẫn còn dạy nhiếp ảnh,
tiếp tục đào tạo những Nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp cho cuộc đời thêm
tươi đẹp.
Hiện ông đang định cư tại San Jose (Bắc Cali)
Nhiếp Ảnh Gia Nguyễn Ngọc Hạnh
Hình 1: Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh trong cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật của ông cùng hai nhiếp ảnh gia Nguyễn Khải và Phạm Hiếu
Những
ai đã từng lớn lên thời chiến tranh chắc không thể không biết nhiếp ảnh
gia Nguyễn Ngọc Hạnh với những bức hình nói về cuộc chiến tại Việt Nam
đầy tính nhân bản. Trong những năm phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng
Hòa, có một biến cố khiến ông trở thành một nhiếp ảnh gia nổi tiếng sau
này.
Trong
một cuộc giao tranh ở Bồng Sơn, Quảng Nam, ông từ chối ra lệnh cho binh
sĩ ném lựu đạn xuống hầm để tiêu diệt Việt Cộng. Lý do rất đơn giản,
Việt Cộng đã bắt cả gia đình
người dân xuống hầm chung với chúng, giết chúng là giết thêm 5, 6
thường dân vô tội. “Ðành rằng là một quân nhân phải tuyệt đối phục tùng
mệnh lệnh, nhưng lệnh của trái tim tôi không cho phép tôi làm chuyện đó
nữa sau khi đã chứng kiến mười mấy căn hầm như vậy."
Tôi
xin chấp nhận hình phạt.” Trở về Bộ Tổng Tham Mưu nhận hình phạt thì
được Tướng Thanh, Phòng I nhìn ra khả năng nhiếp ảnh của ông do ông đã
có 4 năm học bên Pháp nên cho phép ông phục chức và điều ra mặt trận làm
phóng viên chiến trường. Thế là ông đi từ chiến trường này đến chiến
trường kia.
Những bức hình của ông đã giới thiệu cho thế giới biết cuộc chiến tranh
Việt Nam như thế nào, và người lính Việt Nam Cộng Hòa nhân bản ra sao.
Trong
thời gian này, ông viết cuốn sánh “Việt Nam Khói Lửa” và xuất bản được
một cuốn sách hình, lưu lại những hình ảnh sống động của cuộc chiến.
Những bức hình ông chụp được mọi người ngưỡng mộ không phải là những
hình thời sự. Ông chỉ là người tái tạo lại những câu chuyện đã xảy ra
qua góc nhìn của một người lính cầm máy hình. Tất cả hầu như đều
được dàn dựng công phu, tỉ mỉ để nói lên sự thật, mà theo ông “Lịch sử
phải được dựng lại với tất cả lòng kính trọng.” Trong khuôn khổ trang
Người Việt Trẻ, chúng tôi giới thiệu đôi nét về ông và một số tác phẩm
với từng hoàn cảnh ra đời của nó, qua lời kể của nhiếp ảnh gia Nguyễn
Ngọc Hạnh.
Hình 2: Dựng cờ
“Trong
cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, Việt Cộng đã chiếm được
Ðại Nội, họ chuẩn bị sẵn một lá cờ rất lớn treo lên cột cờ tại đây.
Chúng ta phản kích và lấy lại được khu đất này. Trong khi vẫn còn những ụ
súng phản kháng của Việt Cộng thì một trung sĩ quân lực
Việt Nam Cộng Hòa trèo lên cột cờ, xé tan lá cờ Việt Cộng và treo lá cờ
của mình lên.
Khi vừa leo xuống đến khoang đứng trên cùng thì anh bị Việt Cộng hạ sát, té rớt xuống đất.
Lúc đó tôi còn bên kia sông Hương, cầu Tràng Tiền đã bị gãy, và tôi phải tìm cách vượt qua sông để vào Ðại Nội.
Sau
45 phút dưới làn đạn địch, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đó. Tôi được
thuật lại rằng: khi người trung sĩ hy sinh, bà vợ của ông ta từ trại
gia binh gần đó chạy ra, khóc lóc thảm thiết. Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn
81 Hắc Báo 81 bọc lá cờ Việt Nam Cộng Hòa cho người trung sĩ và chuyển
anh ta về tuyến sau. Sau đó Tiểu Ðoàn 81 Hắc Báo truy lùng tàn quân Việt
Cộng và dẹp sạch số còn lại ẩn nấp gần đó.
Hôm
sau tôi quay lại đúng lúc đơn vị Hắc Báo chuẩn bị rút khỏi Ðại Nội, tôi
xin thiếu tá tiểu đoàn trưởng cho chụp một bức hình ghi nhận công lao
của đơn vị. Ðược sự đồng ý của ông, tôi mới sắp xếp chỗ đứng cho các đơn
vị chung quanh cột cờ. Sau đó tôi đề nghị mọi người giơ súng reo hò
‘Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!!... Bức hình được chụp trong hoàn cảnh đó.”
Hình 3: Tấn công
“Tại
mặt trận Bồng Sơn, Quảng Nam khoảng năm 1965-1966, tôi dẫn một đại đội
+, tức là khoảng gần 100 binh sĩ chiếm cứ một ngọn đồi trong vùng. Việt
Cộng cũng chiếm một ngọn đồi khác, cao hơn gần đó. Ban ngày hai bên đều
thấy rõ những hoạt động của nhau như di chuyển, đào hầm hố...
Tôi
nhận định là tụi nó sẽ tấn công chúng tôi vào ban đêm nên cho anh em
chuẩn bị hầm hố cẩn thận và yêu cầu hậu cứ tiếp tế lựu đạn. Hôm sau,
trời vừa nhá nhem tối thì họ tấn công. Tôi lệnh cho binh sĩ dùng lựu đạn
để đẩy lui bọn chúng, súng chỉ được dùng trong lúc đánh xáp lá cà. Ðánh
bằng lựu đạn rất hiệu quả nhưng cũng rất nguy hiểm vì chúng tôi phải
ước lượng được từ nơi đóng quân đến chỗ Việt Cộng la xung phong để sau
khi rút chốt phải đếm giây trước khi ném. Nếu đếm sai, nhất là bị chậm,
sẽ dẫn đến tử thương. Tôi vừa chỉ huy vừa quan sát cách rút chốt lựu
đạn của binh sĩ, và thấy được những khuôn mặt căng thẳng và quyết tâm
của binh sĩ. Năm giờ sáng hôm sau thì Việt Cộng rút,
để lại một số xác. Hôm đó tôi kêu một anh lính người gốc Miên, mua cho
anh một xị rượu cho anh uống, rồi dẫn anh ta xuống chân đồi cùng 2 két
lựu đạn bảo anh ta quăng thật. Thế giới biết đến tôi nhiều cũng qua tấm
hình này.”
Hình 4: Tiếc thương
“Khoảng
năm 1965, Việt Cộng tấn công vào một đồn lính ở Củ Chi, ngoại thành Sài
Gòn. Chúng tôi đến giải vây. Khi Việt Cộng rút đi, họ để lại 6 xác chết
không đầu của những người Nhân Dân Tự Vệ. Chúng tôi đến
chỗ để xác thì thấy một cô gái khóc lóc thảm thương, đang lần mò tìm
xác chồng. Tôi giúp cô tìm thẻ bài để nhận diện, sau đó cho cuốn xác tất
cả lại đem về. Hôm sau tôi đến nhà cô gái mong có thể chụp một tấm hình
của cô nhưng cô vẫn khóc lóc thảm thương quá nên không thực hiện được.
Khi về dưỡng quân ở rừng cao su Ngã Ba Ông Tạ, tôi nhờ con gái tôi, lúc
đó 11 tuổi tìm giúp một người bạn gái nào đó có một hoàn cảnh tương tự
như cô gái ở Củ Chi để dựng tấm hình ‘Tiếc thương’. Cô Tâm là người con
gái mà con tôi tìm được. Hiện nay cô đang sống tại thành phố Oklahoma.
Lúc đó cô mới 19 tuổi, ý trung nhân của cô trong một chuyến bay nhảy
toán ngoài Bắc bị Bắc Việt bắn rơi máy bay và bị bắt làm tù binh. Tôi
đến gặp gia đình
cô và xin phép được mời cô đi chụp hình với tôi.
Gia
đình cô đồng ý. Chỗ chụp hình là một quán bia ở xa lộ Biên Hòa. Tôi nhờ
một anh bạn biết thổi sáo và nói anh ta ngồi phòng bên cạnh chơi những
bản nhạc chiêu hồn như chương trình đài Saigon. Con tôi cũng ở đó, đọc
những lá thư của ý trung nhân cô Tâm viết cho cô. Tôi chải tóc cho cô
như trong hình, đưa tấm thẻ bài cho cô cầm, tấm thẻ bài này tôi mua chợ
đen, một tấm thẻ bài được làm từ thời Pháp. Trong không khí u buồn, và
bị tác động bởi tiếng sáo não lòng cùng với những lời lẽ trong bức thư
của ý trung
nhân, cô ta khóc nấc lên. Những giọt nước mắt lăn trên má, rớt xuống
tay là những giọt nước mắt thật. Hai giọt nước mắt trên tấm thẻ bài là
do tôi tạo ra. Chụp được 6 tấm thì cô tỉnh lại, không khóc nữa. Ðây là
tấm hình lúc cao điểm nhất khi cô ấy nấc lên.”
Hình 5: Hạnh phúc trong tầm tay
“Năm
1973, tôi nghe rằng ở Bạc Liêu có một người như trong hình, tức là bị
cụt tay chân nên đến đó nhờ ông tỉnh trưởng dẫn tới nhà chụp hình. Ðây
là một anh Nhân Dân Tự Vệ trong thôn có nhiệm vụ mở đường mỗi sáng. Một
buổi sáng anh xâm được quả mìn Việt Cộng gài đêm trước, sắp đưa được nó
lên thì quả mìn phát nổ. Anh bị cụt một tay và một chân trái. Tới nhà
anh, một ngôi nhà lá đơn sơ, chỉ có hai cha
con ở nhà, người vợ đi bán buôn ở chợ. Anh nấu cơm, cho gà ăn, giặt
quần áo, và làm tất cả mọi việc có thể làm để giúp vợ. Ðến khi anh ru
con anh ngủ thì tôi biết rằng mình đã gặp một tuyệt tác phẩm. Anh quên
hẳn mình là người tàn tật đùa với đứa con trai nằm trên võng, thằng bé
cũng đùa với bố một cách vô tư và hạnh phúc.”
Hình 6: Mầm măng non
“Ðây
là hai đứa con tôi. Hương và Tuấn. Và hậu cảnh là một đồn canh tại Bình
Chánh trước năm 1968. Ðây là một đồn canh rất mong manh, trong đó có 15
anh Nhân Dân Tự Vệ bảo vệ. Một đêm, khoảng một đại đội Việt Cộng tràn
vào và 9 anh đã hy sinh trong khi chiến đấu. Trận chiến tuy nhỏ nhưng ác
liệt vì các anh đã hết sức chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng dù chỉ
được trang bị vũ khí không bằng địch. Khi chúng tôi đến giải vây thì
đồn canh tan hoang vì đạn pháo, xác các anh nằm la liệt trong đồn. Tôi
cho binh sĩ mai táng cho các anh, dọn dẹp đồn canh cho sạch. Chúng tôi
đóng quân lại và chuẩn bị mọi thứ ‘đón tiếp’ nếu địch quay lại và lên kế
hoạch hành quân tìm địch. Hai tháng sau, nhớ con quá nên tôi cho đem
hai đứa con tôi lên đơn vị chơi. Mua cho hai cháu 2 bộ quần áo mới màu
đỏ và vàng để tạo màu lá cờ và để cho hai cháu chơi trong đồn canh đó.
Tôi muốn nói với mọi người rằng những mầm măng non của đất nước sẽ lớn
lên trên đống hoang tàn của chiến tranh nhờ sự hy sinh của người lính
Việt Nam Cộng Hòa.”
Hình 7: Vá cờ
“Trong
trận chiếm lại Ðại Nội, Huế năm 1968, tôi có gặp vợ người trung sĩ tử
trận. Tôi ghé nhà chị mong chụp được một tấm hình chân dung người góa
phụ nhưng không được. Trước nỗi tiếc thương người chồng vừa mất, tôi
không muốn chị phải đau thêm.
Thế
rồi khi qua Mỹ tôi lại tình cờ gặp lại chị trong khu chợ Lion ở San
Jose, ý định chụp tấm hình vá cờ trở lại, nhưng chị đã già đi nhiều,
không thích hợp và tôi đành phải đi tìm người khác. Tôi quen với
anh chị Hải Bằng, chị bằng lòng làm người mẫu cho tôi chụp bức hình ‘Vá
cờ’ này. Tôi mua một cái nón sắt ở chợ trời, mượn cây súng trường của
anh bạn Bùi Ðức Lạc là cả một chuyện khó khăn. Tôi dùng hai thứ đó làm
hậu cảnh. Lá cờ được tôi đốt lỗ chỗ để chị ấy vá.
Chị
cứ ngồi vá cờ và tôi cứ chụp. Ðến động tác như trong hình thì tôi nói
chị giữ nguyên động tác đó, tôi mở hé cửa sổ chỉ cho một phần ánh sáng
rọi vào lá cờ, rọi vào nón sắt. Tuyệt vời. Bức hình chỉ có một ý nghĩa
duy nhất: Chúng ta hãy vá lại những mảnh đời, những mảnh tình, những đơn
vị chia rẽ, vá lại tình đoàn kết.”
Hình 8: Hai cha con
"Gia
đình anh bạn trong hình ở San Jose. Tôi đến nhà một cô học trò và gặp
anh đang sửa chữa nhà cho chị
ấy. Nhà anh cũng ở cạnh và con anh, đứa bé trong hình hay chạy qua trò
chuyện với anh. Tôi thấy hình ảnh hai cha con đẹp quá nên mới đề nghị
được chụp hình hai cha con. Chủ đề tôi muốn là một buổi gặp gỡ hai cha
con khi người cha từ chiến trận trở về. Tôi nói với anh hãy cố tạo những
câu chuyện kể cho cậu bé nghe và để cho bé đặt những câu hỏi. Hai cha
con thật tự nhiên trò chuyện, thằng bé đặt nhiều câu hỏi cho cha mình và
cười thật tươi. Một tấm hình thật đẹp, thật yên bình."
Hình 9: Chân dung người lính
"Tôi
có một người bạn học tên Tuấn học chung tại trường Tarbert, Sài Gòn.
Chúng tôi cùng đi lính, và sau này về chung một đơn vị. Tôi là tiểu đoàn
phó Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, anh là đại đội
trưởng Ðại Ðội 2. Hôm đụng trận ở Ðất Cuốc, Củ Chi, đơn vị anh đổ bộ
xuống cánh đồng trống thì bị phục, ngay đợt đầu tiên chúng tôi đã bị
thương vong. Từ trong những bó rơm lớn, Việt Cộng núp trong đó bắn ra
đội hình chúng tôi. Trong trận đánh này, anh Tuấn hy sinh. Sau này tôi
hay mơ thấy anh về đứng bên giường tôi với đôi mắt như trong bức hình
này. Anh cứ đứng nhìn tôi một cách buồn thảm rồi biến mất. Khi qua Mỹ
chỉ được 2, 3 ngày thôi anh lại về với tôi trong giấc mơ, cũng nhìn tôi
với đôi mắt như thế này. Giật mình tỉnh dậy, tôi nghĩ là anh theo tôi
qua tới đây. Cố gắng ngủ lại, tôi lại thấy anh, anh như muốn nói với tôi
rằng ‘Bây giờ niên trưởng tới đất Mỹ bình an, nhưng đừng quên những
phút tác chiến bên nhau. Xin
đừng quên những ngày gian khổ.’ Tôi cầu nguyện cho anh và hứa với lòng
sẽ cầu nguyện cho anh suốt đời, và có ý định tìm người mẫu để tái tạo
lại cái nhìn của anh Tuấn. Nhờ ơn trên, tôi gặp được anh Dư trong một
buổi sinh hoạt Gia Ðình Mũ Ðỏ."
Tôi
kể cho anh Dư nghe câu chuyện của anh Tuấn, anh đồng ý giúp tôi. Lúc
chụp hình tôi mở cho anh nghe những bài nhạc hành quân oai hùng. Khi bài
nhạc đang ở cao trào, tôi xin anh đứng lên và chào cờ theo nghi lễ quân
cách. Anh đứng lên chào và nhìn thẳng vào lá cờ tôi treo sau máy hình.
Tấm hình được thực hiện như thế, còn kỹ
thuật rửa hình là phần của tôi để tạo được tác phẩm này. Bức hình đã
tái tạo lại được cái nhìn của một chiến sĩ đã hy sinh, như đang nói giùm
những người đã nằm xuống rằng ‘Em thì đã đành rồi, người trưởng thượng
thì vẫn còn sống. Thế thì nhiệm vụ của các anh chưa hết đâu, các anh
phải tiếp tục phục vụ đất nước.’”
Một số hình ảnh của Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh
Làm đường dân đi - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Làm đường dân đi - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Bình minh trên vịnh - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Bữa cơm ngày mùa - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Khát nước - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Trở về 2 - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Anh đồ - Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Source: Vu's site
1 nhận xét:
ông này còn sống à ???
Đăng nhận xét